Âm Khách – Chương 30

☆, Chương 30:

 

 

Tạ Bạch theo tiếng nói của Lập Đông nhìn sang, vách đá bên cạnh hàn đàm có một cửa động tối om. Cửa động ấy cao cỡ một người lớn, hơn nửa bị dây leo che khuất, nửa còn lại được hỏa long chiếu rọi.

 

Lập Đông vén đám dây leo kia lên, để lộ ra ba chữ bị người ta dùng kiếm khắc xuống – Đá bồ tát.

“Nè – đừng vội tiến vào chứ đại nhân, ai biết trong động này có chôn ám chiêu gì hay không.” Lập Đông thấy Tạ Bạch toan bước vào, vội vàng ngăn cậu lại.

 

Ân Vô Thư không mấy hứng thú với cái động này cho lắm, y đá đá thi thể yêu thú trên đất, giơ tay thu hồi hỏa long lại, vê thành một nắm, lại ném qua phía Lập Đông: “Ám chiêu thế nào? Chiếu thử xem sao.”

 

Y nói thì nói thế, nhưng lại chẳng buồn nhìn cái cửa động kia lấy một chút, mà ngồi xổm xuống, cách không đẩy đống thi thể kia xuống đáy hồ.

 

“Tất cả đều là Cổ Điểu (1), dáng dấp nửa báo nửa đại bàng, có loại lại có sừng trên đầu.” Y rõ ràng không hề chạm tay vào những thi thể này, thế nhưng khi xử lý xong xuôi chúng nó, Ân Vô Thư vẫn theo bản năng vỗ tay một cái, làm như cách không chạm vào cũng có thể dính bẩn vậy.

 

Lập Đông nghe vậy liền nhìn phía đáy hồ một cái: “Ái chà! Tôi nói đúng mà, giờ lôi cả không quân thủy quân ra chiến a!”

 

Tạ Bạch: “….”

 

“Thế nhưng cổ điêu không phải từ trước đến nay đều núp ở Lộc Ngô sơn, không bao giờ rời tổ sao?” Lập Đông vò quả cầu lửa trong tay, nói: “Chẳng lẽ đến giờ đám này học theo thói quen di cư của loài chim, bắt đầu từ nam ra bắc bay qua bay lại à?”

 

Ân Vô Thư liếc nhìn toàn bộ thung lũng, hừ một tiếng khinh bỉ, giọng nói lạnh nhạt: “Phí bao sức lực bỏ tổ chạy tới nơi tràn ngập quỷ khí thế này, để làm cái gì? Chỉ tổ dâng mạng.”

 

Bởi vì hỏa long vòng quanh hàn đàm đã bị thu hồi lại, cho nên ngoại trừ quả cầu lửa trong tay Lập Đông, không còn nguồn sáng nào khác, khắp nơi trở lại một màu tối tăm. Tạ Bạch nhìn Ân Vô Thư, khuôn mặt y một nửa khuất trong bóng tối, biểu tình không đoán nổi.

 

Ân Vô Thư híp mắt nghĩ trong chốc lát, lại trở về sắc mặt như bình thường, quay sang vẫy vẫy Tạ Bạch: “Gom lại thành chồng rồi, đến thu đi.”

 

Tạ Bạch: “….”

 

Động tác này khiến Tạ Bạch nhớ tới lão Lý ở trung tâm pháp y, mỗi buổi trưa sau khi trộn cơm xong, lão đều gọi con mèo mà lão nuôi tới dùng cơm, động tác lẫn thần thái quả thật giống nhau như đúc.

 

Tạ Bạch ngây ra nhìn Ân Vô Thư, mãi đến khi y bỏ tay xuống cậu mới nhấc chân đi tới, nhảy xuống đáy hồ.

 

Ân Vô Thư đứng ở bên hồ, mỉm cười: “Ta không bỏ tay xuống cậu quyết đứng mãi?”

 

Tạ Bạch không thèm để ý đến y.

 

Lớp bùn dưới đáy hồ quanh năm ngâm trong nước, mềm oặt dẻo dẻo, Tạ Bạch nhẹ chân đi xuống, không để lại chút dấu vết nào.

 

Chuyện thu thi thể yêu loại cậu đã làm nhiều lần, huống chi đám cổ điêu kia nguồn gốc rõ ràng, nguyên nhân cái chết càng rõ ràng hơn, cậu bỏ qua được bước kiểm tra, trực tiếp hút hết cốt nhục đám thi thể này vào, không thừa chút cặn.

 

Cậu toan bước lên bờ, mới chợt nhớ ra lần trước Ân Vô Thư nói hiến tế trận có vẽ một cái kí hiệu, giống như kí hiệu cạnh chỗ Ân Vô Thư phát hiện ra cậu.

 

Lần phá trận vừa rồi còn chưa được nhìn thấy liền bị Ân Vô Thư phá cho tan tành, hiện tại y chỉ bổ một đao, hiến tế trận tuy rằng bị phá giải, nhưng hình dáng vẫn bảo toàn khá nguyên vẹn, nói không chắc có thể nhìn thấy nguyên dạng của kí hiệu kia.

 

Tạ Bạch cúi người cẩn thận nhìn kĩ từng vũng bùn một, quả nhiên phát hiện ở giữa hồ, có một dấu ấn hình tròn tương tự đồ đằng (2). Dấu ấn này bị lưỡi đao khắc sâu một vệt, thế nhưng không hề ảnh hưởng đến toàn thể.

 

Cậu vẽ lên lòng bàn tay, cảm thấy hình dáng của nó tựa như mặt trời cùng động vật nào đó kết hợp lại.

 

“Làm sao lại ngồi đó? Hấp thụ nhiều quá, đau bụng?” Ân Vô Thư đứng bên cạnh hồ bắt đầu nói bậy nói bạ.

 

Tạ Bạch lườm y một cái, đứng dậy nhảy lên bờ. Cậu giơ hình vẽ trong tay mình ra trước mặt y, hỏi: “Kí hiệu mà ngài nói lúc trước, là cái này?”

 

Ân Vô Thư nhìn lướt qua, gật đầu: “Ừm.”

 

Có được đáp án, Tạ Bạch liền xóa dấu ấn trong tay mình đi, bước nhanh về phía Lập Đông.

 

Cậu không khách khí phân một phần từ quả cầu lửa kia, nâng ở đầu ngón tay, thẳng hướng cửa hang mà tiến.

 

“Ôi chao, đại nhân –”

 

Lập Đông vừa mới hô một tiếng, liền bị Tạ Bạch ngắt lời: “Không có bất kì sát khí, ở đâu ra tới ám chiêu.”

 

Ân Vô Thư bình thản theo ở phía sau, cũng bổ thêm một câu: “Nếu có ám chiêu sao vừa nãy không ra, hiện tại có ích lợi gì. Chiêu hồn sao?”

 

Lập Đông nhét hai tay vào trong tay áo, lúng túng khịt mũi: “Được rồi tôi khờ.”

 

Ruột thịt cùng người dưng quả nhiên bất đồng… a không đúng! Nuôi thật lâu cùng nuôi không lâu quả nhiên bất đồng…. Ôi chao cũng không đúng!

 

Trong đầu nghĩ lung tung, chân vẫn bước theo sau.

 

Kết quả đi vào mới phát hiện hang động này không được lớn lắm, chỉ vừa một người đi lại, đi độ năm – sáu bước, có ngã rẽ, tới thẳng một căn phòng đá rộng vô cùng, lại rất đơn sơ. Trong phòng chỉ có một cái bệ đá, nói giường thì không đúng, bệ đá kia chỉ đủ cho một người ngồi khoanh chân điều tức mà thôi.

 

Có vẻ như nơi đây từng có vị tu sĩ nào lưu lại.

 

Tạ Bạch nâng đoàn lửa trong tay, tỉ mỉ đi tra xét khắp các góc trong phòng, ngay cả dưới chân tường cũng không buông tha.

 

Đại khái cảm thấy cậu quan tâm thái quá tới hang động này, Lập Đông buồn bực hỏi: “Đại nhân, chỗ này có vấn đề gì sao?” Nếu không có ám chiêu ám khí, cái động này nhìn một phát thấy hết luôn, tại sao còn phải dò từng tấc từng tấc một như thế? Làm cứ như sợ để sót cái manh mối quan trọng nào đó không bằng.

 

Tạ Bạch dò quanh một lượt, không bỏ sót một mảy may nào, nhưng lại không thu được kết quả gì, cậu cay mày ngửa đầu nhìn nóc hang, nói: “Lúc ngồi trong miếu cũ, tôi có mơ một giấc mơ, về một số chuyện hồi nhỏ, trong đó có một đoạn viết trên sách.”

 

Cậu nhấc chân chỉ mặt đất, nói: “Thực khéo là, người viết sách nói ở trong hang Đá bồ tát có nhìn thấy một con Bạch hổ cùng một hắc y nhân.”

 

“Hang Đá bồ tát?” Lập Đông kinh ngạc: “Đó chẳng phải chính là nơi này sao? Quả nhiên trùng hợp thật đấy. Thế nhưng sau đó thì sao?” Người mặc áo đen kia thế nào?”

 

Tạ Bạch lắc đầu: “Nội dung phía sau tôi không thấy rõ, liền bị tiếng mở cửa làm tỉnh lại. Mà tôi luôn cảm thấy nội dung phía sau rất quan trọng. Bởi vì trước khi tỉnh lại tôi có nhìn lướt qua nó, thế nhưng sau khi mở mắt lại không thể nhớ ra được.”

 

Lập Đông: “…..”

 

Khóe miệng giật một cái, cảm thấy không hay lắm, đành ho khan một hơi, nói: “Hiểu mà, tôi lúc nằm mơ cũng thường như thế, cứ tỉnh dậy là lại như bị mất trí nhớ vậy.”

 

Ân Vô Thư liếc hắn một cái, nói: “Ngươi là ngốc bẩm sinh, trí nhớ kém.”

 

Lập Đông: “….” Cách đối xử có phải hơi bị quá khác biệt rồi không?

 

Ân Vô Thư nói xong, liền chuyển hướng sang Tạ Bạch, hỏi: “Còn nhớ tên cuốn sách không?”

 

Thật ra trực giác của Tạ Bạch trước giờ luôn chuẩn, Ân Vô Thư biết rõ điều đó, cho nên y không cảm thấy việc cậu coi trọng cuốn sách đó có vấn đề gì, ngược lại rất tích cực muốn giúp Tạ Bạch hồi tưởng một chút.

 

Tạ Bạch cau mày, ánh mắt nhìn xuống mặt đất một hồi, trong đầu có rất nhiều đoạn ngắn trôi qua, vài giây sau, cậu ngẩng đầu lên, đáp: “Lúc ấy tôi không chú ý tên sách, chỉ nhìn lướt qua, cũng không có xem toàn bộ, nếu như nhớ không lầm, tên sách có bốn chữ, hai chữ sau là ‘thoại bản’, bìa sách đã cũ lắm rồi, chữ viết bên trong có chút phai màu, viết rất ngoáy, dường như là bản viết tay.”

 

“Thông tin hơi ít.” Ân Vô Thư nghe đến vậy, khẽ nhíu mày lại, y ngẫm nghĩ một lát, lại nói: “Sách này nhìn thấy trong trường hợp nào?”

 

Tạ Bạch thoáng chần chừ, mới nói ra: “Hội đèn lồng.”

 

Ân Vô Thư: “Hội đèn lồng? Là lần nào?”

 

Tạ Bạch tránh né đi: “Hồi tôi mới học được cách biến âm thi khí hóa thành thực thể.”

 

Ân Vô Thư sửng sốt, qua một hồi lâu, khẽ ‘a’ lên một tiếng, đã nhớ ra: “Là cái lần ngươi làm nhân nguyên tiêu (3) hỗn tạp kia.”

 

Nhắc tới vấn đề này, khuôn mặt vốn nghiêm túc thoáng dịu dàng một chút, sau đó y mỉm cười, nói: “Mùi vị đó quả thật là…”

 

Tạ Bạch nhìn y chằm chằm.

 

Ân Vô Thư ho khan một tiếng: “Cũng không tệ lắm.:

 

Lập Đông tròn mắt, vẻ mặt ngơ ngác mà nhìn hai người họ. Từ khi gia nhập Thái Huyền đạo hắn biết được khá nhiều thứ, bao gồm cả chuyện Ân Vô Thư nuôi Tạ Bạch hơn 100 năm. Thế nhưng lúc hắn bị hợp nhất lại, cùng Ân Vô Thư làm việc, Tạ Bạch và Ân Vô Thư đã chẳng còn liên lạc với nhau, hơn nữa cứ ai nhắc tới hai chữ ‘Âm khách’, tâm trạng của Ân Vô Thư đều trở lên không được tốt lắm, cho nên trong lòng Lập Đông vẫn luôn cho rằng một trăm năm đó hai bên chung sống không được hòa thuận cho lắm, thế nên mới có việc lạnh nhạt với nhau lâu như vậy.

 

Vậy mà nhiều chi tiết nhỏ dạo gần đây lại khiến hắn có những suy nghĩ mới.

 

Ngày hôm nay hắn lần đầu tiên biết đến…. âm khách lạnh lùng như băng thế mà lại làm điềm điềm đát nguyên tiêu cho người ta ăn! Ngẫm lại liềm cảm thấy… lạnh run người!

 

Ân Vô Thư cùng Tạ Bạch đều không quá xoắn xuýt với chuyện cũ, trong lòng hai người đểu hiểu biểu hiện chung sống hòa bình của hiện tại chỉ do hai người miễn cưỡng duy trì ở mặt ngoài mà thôi, nếu đi sâu tìm hiểu sẽ rách nát tơi tả. Với bọn họ, giờ mà nhắc tới chuyện cũ chẳng khiến người ta vui vẻ chút nào.

 

“Ngày đó có một quầy bày sách, cũng chính là quán yêu kia bày.” Ân Vô Thư hiển nhiên nhớ tới tình cảnh ngày đó. Tạ Bạch vừa nhắc đến, y liền tiếp lời: “Quán yêu kia vẫn còn, hằng năm tới Yêu thị đều có thể nhìn thấy hắn, nói không chừng hắn vẫn có chút ấn tượng với những gì mà mình từng thu thập cũng nên.”

 

Dù sao trí nhớ của yêu loại đều tốt hơn người thường rất nhiều.

 

“A! Nói mới nhớ – đêm mai, chợ phiên Bắc Hải sẽ tổ chức a!” Lập Đông vỗ đùi, nhắc nhở.

 

Ân Vô Thư ‘ừ’ một tiếng, nhìn Tạ Bạch: “Vừa vặn, trực tiếp tìm quán yêu kia hỏi, có thể tìm thấy quyển sách đó liền không thể tốt hơn.”

 

 

———————————-

Chú thích:

 

(1) Cổ Điêu 蛊雕 là một loại quái vật nửa báo nửa đại bàng, có sừng, tiếng như trẻ khóc, loài này chỉ ăn thịt đồng loại.

(2) Đồ đằng 图腾 (trong tiếng Trung) hay Vật tổ (trong tiếng Việt) đều là khái niệm được phiên âm từ tiếng Anh hay tiếng Pháp, mà từ gốc là totem. Totem là thuật ngữ mà tiếng Anh đã mượn từ ngôn ngữ của người bản địa ở châu Mỹ.

 

“Từ điển tiếng Việt” của Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia do Nguyễn Kim Thản, Hồ Hải Thụy, Nguyễn Đức Dương biên soạn (Nxb Văn hóa Sài Gòn, 2005) giảng totem là “động vật, cây cỏ, đồ vật hoặc hiện tượng tự nhiên mà tộc người nguyên thủy coi là biểu tượng thiêng liêng của bộ tộc mình và tin rằng những thứ đó có mối liên hệ siêu tự nhiên và có sự gần gũi máu thịt”.

 

Vật tổ của người Việt nguyên thủy là cá sấu. (Nguồn: https://petrotimes.vn/vat-to-va-to-tem-67009.html)

 

(3) Nguyên tiêu元宵: Chính là tên món ăn truyền thống trong ngày Tết nguyên tiêu/ lễ hội đèn lồng của người dân TQ. Trong chương 26 mình có nói Phù nguyên tử và đường nguyên là một (baike bảo thế), còn tác giả lại bảo Phù nguyên tử và Nguyên tiêu là một, như vậy tức là đường nguyên = nguyên tiêu. Mình tra trên một số trang thì chúng có chung nguồn gốc, còn thực tế nó khác nhau.

+ Nguyên tiêu là món ăn truyền thống vào dịp tết nguyên tiêu ở miền bắc TQ. Người ta sẽ nhồi nhân trước (gồm trái cây khô/ các loại hạt đỗ/ …) sao cho nhuyễn lại với nhau, và nặn thành từng viên cỡ trái bóng bàn. Sau đó lăn những viên nhân này vào trong lớp bột gạo để làm vỏ. Cuối cùng người ta sẽ cho hấp cách thủy hoặc luộc (vừa nước).

+ Đường nguyên là món ăn truyền thống vào dịp đông chí của người dân miền nam TQ. Nó chính là món chè trôi tàu.

 

 

Bình luận về bài viết này